Tranh cãi từ số tiền bị tố lừa đảo
Nội dung vụ án thể hiện, năm 2016, ông Nguyễn Xuân Mạnh (trú quận Bắc Từ Liêm, Tp.Hà Nội) có nhu cầu nhập khẩu 4 loại thuốc tân dược từ nước ngoài về Việt Nam để kinh doanh. Theo quy định, ông Mạnh là cá nhân nên không được cấp phép nhập khẩu thuốc tân dược từ nước ngoài về.
Do đó, từ cuối 2016 đến giữa năm 2017, ông Mạnh đã thông qua một số công ty dược để nhờ ủy quyền, đứng tên và gửi hồ sơ đăng ký các đơn hàng thuốc đến Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) để làm thủ tục xin cấp phép nhập khẩu. Tuy nhiên, chỉ có đơn thuốc Virpas (1/4 mã hàng) đủ hồ sơ, điều kiện được cấp phép.
Đầu tháng 7/2017, thông qua sự giới thiệu của anh Đinh Gia C. (quận Hà Đông, Tp.Hà Nội), ông Mạnh quen biết với Nguyễn Cao Hạnh (trú quận Nam Từ Liêm, Tp.Hà Nội).

Vụ án được TAND Tp.Hà Nội đưa ra xét xử ngày 20/6 và sẽ tuyên án vào ngày 23/6 (ảnh minh hoạ).
Quá trình gặp gỡ, ông Mạnh nói với Hạnh về việc đang muốn tìm nguồn tiêu thụ sắt thép và thuốc tân dược trong nước. Sau đó, Hạnh hẹn ông Mạnh đến nhà số 357, đường Hoàng Hoa Thám, quận Ba Đình, Hà Nội (địa chỉ Hạnh và vợ Hoàng Thị Ánh Tuyết thuê để làm cửa hàng Spa) để bàn việc.
Khi Mạnh đến gặp thì được giới thiệu hai vợ chồng Hạnh đều là luật sư thuộc Đoàn Luật sư Tp.Hà Nội, có nhiều mối quan hệ với các ngân hàng và có người quen làm ở Bộ Y tế, nên có thể làm thủ tục vay vốn ngân hàng và tìm đối tác tiêu thụ thuốc tân dược.
Thấy vậy, ông Mạnh đã nói về việc đang có 3 đơn hàng thuốc tân dược cần làm thủ tục xin cấp phép nhập khẩu về và đang còn thiếu tài liệu trong hồ sơ. Do có ý định chiếm đoạt tiền của ông Mạnh nên Hạnh nói dối là có thể giúp xin cấp phép được.
Để tạo lòng tin cho ông Mạnh, Hạnh và Tuyết đưa cho ông Mạnh xem một số hồ sơ và nói đang giải quyết cho các đối tác muốn nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài về Việt Nam.
Do tin tưởng, ông Mạnh đã nhờ vợ chồng Hạnh liên hệ với các lãnh đạo của Bộ Y tế để xin cấp phép nhập khẩu cho các đơn thuốc của mình. Hạnh nói chi phí để xin cấp phép nhập khẩu nhanh cho các đơn thuốc trên khoảng 2 tỷ đồng và cam kết trong vòng 3 tháng sẽ hoàn thành công việc.
Ông Mạnh yêu cầu làm hợp đồng dân sự thì Hạnh nói đây là việc tế nhị, liên quan đến các lãnh đạo cấp cao nên không thể làm hợp đồng. Sau đó, theo yêu cầu của Hạnh, ông Mạnh đã chuẩn bị hồ sơ của các đơn thuốc trên đưa cho Tuyết và nhiều chuyển tiền cho Hạnh và Tuyết để xin cấp phép.
Theo đó, khoảng đầu tháng 09/2017, ông Mạnh mang 690.000.000 đồng đến số nhà 357, đưa cho Hạnh nhưng Hạnh không có nhà. Sau đó, ông Mạnh đưa số tiền trên để Tuyết nhận hộ và yêu cầu viết giấy biên nhận.
Tuyết đã viết và ký vào 1 tờ giấy với nội dung: "Em Tuyết đã cầm của anh Mạnh số tiền là 690.000.000 VNĐ (sáu trăm chín mươi triệu đồng chẵn)" và đưa cho Mạnh.
Tiếp đến vào ngày 5/10/2017, Hạnh yêu cầu ông Mạnh chuyển cho Mạnh 700 triệu đồng để làm quà và mời lãnh đạo đi ăn uống để sớm đồng ý cấp phép. Ông Mạnh đã chuyển 400 triệu đồng với nội dung: "Nhờ giải quyết xin cấp phép cho 02 đơn thuốc nhập khẩu" và số tiền 300. Triệu đồng với nội dung: "Chuyển tiền theo hợp đồng cấp phép" đến tài khoản của Hạnh.
Ngoài các lần chuyển tiền trên, ông Mạnh còn khai 2 lần tiền mặt cho Hạnh và Tuyết thêm 2 lần (15.000 USD và 500.000.000 đồng). Tổng số tiền ông Mạnh đã chuyển cho vợ chồng Hạnh và Tuyết là 1,89 tỷ đồng và 15.000 USD.
Quá thời hạn 3 tháng, ông Mạnh thấy Hạnh và Tuyết không thực hiện công việc như đã thỏa thuận với mình nên đã nhiều lần yêu cầu Hạnh hoàn trả lại tiền. Đến ngày 28/12/2017, Hạnh mới trả lại cho ông Mạnh 100 triệu đồng. Ngày 25/4/2023, ông Mạnh gửi đơn tố giác hành vi lừa đảo của vợ chồng Hạnh.
Trong quá trình điều tra, Hạnh đã trả lại ông Mạnh thêm 600 triệu đồng. Cơ quan tố tụng khẳng định, không có căn cứ việc ông Mạnh đưa thêm (15.000 USD và 500 triệu đồng), tuy nhiên ông Mạnh vẫn tiếp tục đòi số tiền này.
Lừa đảo hay chỉ là giao dịch dân sự?
Tại phiên tòa ngày 20/6, vợ chồng bị cáo Hạnh một mực phủ nhận hành vi lừa đảo, kêu oan vì đây chỉ là quan hệ dân sự. Hạnh cho rằng, bản thân là cử nhân Luật nên có có kiến thức pháp luật và từng hướng dẫn, trợ giúp nhiều người, trong đó có Mạnh.
Do đó, các lần Mạnh chuyển tiền chỉ là "trả công" vì Hạnh giúp đỡ tư vấn cho Mạnh rất nhiều thủ tục liên quan đến các dự án BĐS, thủ tục vay vốn ngân hàng. Việc Hạnh giúp Mạnh cũng xuất phát từ mối quan hệ quen biết và không có văn bản thể hiện.
Bị cáo cũng cho rằng, bản thân chưa từng nói mình là luật sư, bản thân không đưa ra giấy tờ, tài liệu giả mạo gì thể hiện mình là luật sư. Cả hai quen nhau đã lâu lại thông qua người bạn chung chơi thân tên C. nên chắc chắn Mạnh biết bị cáo không phải luật sư.

TS. Luật sư Đặng Văn Cường, người bào chữa cho bị cáo trong vụ án.
Tại toà, ông Nguyễn Xuân Mạnh cho rằng, bản thân là chủ doanh nghiệp nên chỉ muốn giải quyết công việc nhanh chóng, sau khi quen biết đến nhà chơi, thấy vợ chồng Hạnh có "cơ ngơi lớn" nên tin tưởng giao tài liệu và tiền cho vợ chồng Hạnh lo liệu giúp. Chỉ khi không được việc như cam kết, đòi tiền không được nên mới làm đơn tố giác.
Đại diện VKS khẳng định bảo vệ quan điểm, dù không nhận tội, nhưng có đủ căn cứ khẳng định vợ chồng bị phạm tội thông qua 2 lần nhận tiền qua tài khoản và một lần nhận 690 triệu đồng được Tuyết ghi tại giấy nhớ đưa cho Mạnh.
TS.Luật sư Đặng Văn Cường (Văn phòng Luật sư Chính Pháp), người bào chữa cho 2 bị cáo cho rằng, vụ án không có dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bởi, theo quy định của pháp luật thì lừa đảo chiếm đoạt tài sản là bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác từ 2.000.000 đồng trở lên.
Tuy nhiên, kết quả điều tra và kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa cho thấy, chưa đủ cơ sở để xác định bị cáo có thủ đoạn gian dối với bị hại. Trước hết, bị hại và bị cáo quen biết nhau thông qua người bạn chung rất thân với cả hai là anh C..
Do đó, những thông tin về bị cáo thì anh C. và người bị hại biết rất rõ, không có chuyện bị cáo có thể mạo danh luật sư. Ngoài ra, sau khi quen biết, cả hai đã qua lại với nhau khoảng một năm, nhiều lần gặp gỡ nên không thể nói rằng không biết bị cáo làm nghề gì.
Luật sư Cường nêu thêm, về thủ tục dịch vụ pháp lý khi các công ty luật hay văn phòng luật sư ký kết với khách hàng thì phải có hợp đồng dịch vụ pháp lý, phải đóng dấu, phải có người đại diện của tổ chức hành nghề luật sư.
Tuy nhiên, trong vụ án không có bất kỳ chứng cứ nào chứng minh các bên giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý, thể hiện bị cáo mạo danh luật sư để cung cấp dịch vụ pháp lý cho bị hại,…
Một điều rất quan trọng nữa là tại phiên tòa, bị hại khẳng định là biết rõ năng lực và trình độ của các bị cáo, biết các bị cáo không có chuyên môn về ngành y và không thể thực hiện được công việc, nhưng vẫn chuyển tiền vì hy vọng các mối quan hệ của bị cáo có thể giúp chạy thủ tục.
Tại tòa, bị hại cũng khẳng định, không quan tâm bị cáo là cử nhân luật hay luật sư. Bị hại chỉ cần biết, khi đưa tiền thì vợ chồng Hạnh phải hoàn thành công việc đúng cam kết. Việc vợ chồng bị cáo sử dụng tiền làm gì, đưa cho ai, bị hại không quan tâm.
"Như vậy, lời khai trước tòa của bị hại cho thấy, người này chỉ tin tưởng vào tiền mình đưa và có niềm tin vào việc bị cáo có thể dùng mối quan hệ để lo giúp công việc. Nên việc mạo danh luật sư ở đây không có ý nghĩa gì", luật sư Cường nhấn mạnh.
Tại phiên tòa, luật sư cũng nêu lập luận không có chứng cứ chứng minh các bị cáo cam kết về kết quả và thời hạn giải quyết công việc đối với người bị hại là 3 tháng như cáo trạng quy kết. Trong khi đây là những vấn đề mấu chốt của vụ án để xác định các bị cáo có gian dối hay không,…
Do đó, hành vi không cấu thành tội phạm nên các luật sư đề nghị tòa án tuyên bố bị cáo không phạm tội, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa.
HĐXX cho biết sẽ đánh giá các tình tiết, cũng như các ý kiến tại phiên tòa trong thời gian nghị án và sẽ tuyên án vào ngày 23/6/2025.